Hiện nay trẻ em có bao nhiêu quyền – Luật trẻ em

Hiện nay tình trạng trẻ em bị xâm hại diễn biến phức tạp hơn, gia tăng về mức độ, cũng như số lượng vụ việc đã tăng hơn trước đây. Các vụ việc bóc lột sức lao động, hiếp dâm, dâm ô trẻ em, bạo hành gia đình, bạo lực học đường.. ngày càng nhiều hơn sơ với những diễn biến hiện tại. Những vụ việc trở nên công khai và làm rúng động dư luận và đưa ra cảnh báo đỏ về sự an toàn của những đứa hiện nay và sự xuống cấp của đao đức, ý thức vè pháp luật của mọi người trưởng thành không còn như trước đây. Vậy quyền của trẻ em được quy đinh như thế nào? Có bao nhiêu dạng quyền? và Những dạng nào mà gia đình cần nên biết chăm sóc và giáo dục trẻ em ở trong độ tuổi này.

QUYỀN-TRẺ-EM

Quyền trẻ em hiên nay được quy định dưới 04 dạng chính , trong đó có 02 dạng đầu là quyền trực tiếp; 2 dạng phía sau. Hay còn gọi là quyền gián tiếp và quyền thụ động:

Quyền: được sống và được phát triển, có họ tên và quốc tịch,…

Tự do: tự do tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo,…(quyền cơ bản)

Trách nhiệm của cha mẹ trong gia đình và xã hội: thực hiện các quyền của trẻ em, có nghĩa vụ định hướng và chỉ dẫn phù hợp với trẻ…

Quyền được ba mẹ và xã hội bảo vệ: không bị bóc lột và lạm dụng tình dục, không bị mua bán bắt cóc, không bị tra tấn và tước đoạt tự do, không bị ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang,…

Nội dung quyền trẻ em trong CRC được phân thành 04 nhóm:

A/ Nhóm quyền được sống hay được tồn tại: Điều 5, 6, 24, 26, 27

B/ Nhóm quyền được bảo vệ: Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21, 22, 23, 25, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40

C/ Nhóm quyền được phát triển: Điều 17, 18, 28, 29, 31, 32

D/ Nhóm quyền được tham gia: Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30

Quyền cơ bản của trẻ em được quy định trong Luật Bảo vệ Trẻ Em năm 2004, Luật Hôn nhân gia đình 2014 và Hiến Pháp Lệnh năm 2013.

Theo tư liệu hiện nay Việt Nam là nước đầu tiên ở khi vực Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em(2) vào ngày 20/02/1990.

Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 đã nói về quyền trẻ em (trực tiếp là các Điều 14, 15 và trong những điều luật khác trong hiến pháp, và trong tất cả các Hiến pháp năm 1959, 1980,  1992 bao gồm những lần sửa đổi, bổ sung vào những năm 2001, năm 2013. Trong khi Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được nói trực tiếp ở Điều 40 ở điều khác như Điều 50,…. Và cũng được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật khác nhau, mà chủ yếu là tập trung là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ năm 2004, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và trong Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em quy định trực tiếp ở khoản 1, Điều 37. Cụ thể như sau:

Công ước về Quyền trẻ em

Thứ nhất, quyền được khai sinh và có quốc tịch đàng hoàn.

Khi mọi trẻ em sinh ra điều có quyền được đăng kí khai sinh. Giấy này là giấy tờ họ tịch của mỗi cá nhân nó có giá trị toàn cầu. Giấy có nội dung tên họ; chữ; đệm; ngày; tháng; năm sinh; giớ tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh.

Thứ hai, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng

Mỗi đứa trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, để có thể phát triển thể chất, cũng như trí tuệ, lẫn tinh thần và kể cả đạo đức. Cha mẹ phải có nghĩa vụ và quyền yêu thương những đứa trẻ, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ mọi quyền, lợi ích hợp pháp của con trẻ; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để trẻ con phát triển lành mạnh, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, là một công dân có ích cho xã hội hiên tại và sau này, theo đó:

– Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

– Cha mẹ tạo điều kiện môi trường gia đình đầm ấm cho trẻ, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt để trẻ có thể được phát triển; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.

– Cha mẹ định hướng, hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề của trẻ, quyền được tham gia các hoạt động xã hội của con.

– Trẻ gặp khó khăn không tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị hỗ trợ của cơ quan, tổ chức hữu quan để giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con.

– Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của trẻ chưa thành niên, nếu tẻ em đã đủ tuổi vị thành niên mất năng lực hay hành vi dân sự.

– Cha mẹ phải bồ thường thiệt hại những già trẻ gây ra khi bé chưa đủ tuổi vị thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra.

Không được phân biệt đối xử trẻ về mặt giới tính hay tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của những đứa trẻ chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, hay ép buộc làm những việc trái pháp luật hay xã hội đối với trẻ, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Thứ ba, quyền được sống chung với cha mẹ

Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em. Các trường hợp trẻ em buộc phải cách ly cha mẹ được pháp luật quy định, gồm:

– Cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù.

– Cha mẹ bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyết định không cho cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

– Trẻ em bị quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục…

Khi phải sống cách ly cha mẹ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em được bảo đảm như sau:

– Trong trường hợp, cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù, thì trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức chính trị – xã hội chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế, trừ trẻ em dưới ba mươi sáu tháng tuổi.

– Trong trường hợp bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên, thì trong thời gian thi hành quyết định của Tòa án, trẻ em được giúp đỡ, bảo vệ lợi ích; Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự.

– Trong các trường hợp này, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức việc chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế cho trẻ em phải sống cách ly cha mẹ theo các hình thức giao cho người thân thích của trẻ em, giao cho gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em tại địa phương để chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế.

– Cơ quan có chức năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em các cấp có trách nhiệm xác minh điều kiện, hoàn cảnh sống, khả năng kinh tế của người thân thích, gia đình thay thế, cơ sở trợ giúp trẻ em để đề xuất người chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế đối với trẻ em phải sống cách ly cha mẹ; liên hệ và thực hiện quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế; thường xuyên kiểm tra điều kiện sống của trẻ em phải sống cách ly cha mẹ sau khi giao cho người chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế.

– Trong thời gian trẻ em ở trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện, cha mẹ, người giám hộ của trẻ em này có trách nhiệm thường xuyên thăm hỏi, động viên, giúp đỡ; trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện phải tạo điều kiện để trẻ em giữ mối liên hệ với gia đình, gia đình thay thế; Ủy ban nhân dân, các cơ quan, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội cấp xã, nơi có trẻ em vào trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện, có biện pháp cụ thể để giúp đỡ trẻ em tiến bộ và tái hòa nhập gia đình, cộng đồng khi trở về.

Thứ tư, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể nhân phẩm và danh dự

Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn cho trẻ em. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em đều bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, quyền được chăm sóc sức khỏe

Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.

Thứ sáu, quyền được học tập

Trẻ em có quyền được học tập, đối với bậc tiểu học trẻ em không phải đóng học phí, theo đó:

– Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập. Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn.

– Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em; chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

– Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm chất lượng giáo dục.

– Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, trợ cấp xã hội để thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.

Thứ bảy, quyền được vui chơi giải trí hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch

Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi, theo đó:

– Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi.

– Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quy hoạch, đầu tư xây dựng điểm vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao cho trẻ em thuộc phạm vi địa phương. Không được sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em.

– Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ trẻ em vui chơi, giải trí.

– Xuất bản phẩm, đồ chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật, điện ảnh nếu có nội dung không phù hợp với trẻ em thì phải thông báo hoặc ghi rõ trẻ em ở lứa tuổi nào không được sử dụng.

Thứ tám, quyền được phát triển năng khiếu

Trẻ em có quyền được phát triển năng khiếu. Mọi năng khiếu của trẻ em đều được khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, theo đó:

– Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm phát hiện, khuyến khích, bồi dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ em.

– Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia bồi dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ em; tạo điều kiện cho nhà văn hoá thiếu nhi, nhà trường và tổ chức, cá nhân thực hiện việc bồi dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ em.

Thứ chín, quyền có tài sản

Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật. Tài sản riêng của trẻ em bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của trẻ em, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của trẻ em và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của trẻ em cũng là tài sản riêng của trẻ em. Cha mẹ có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo quản lý, bảo vệ, định đoạt tài sản riêng của trẻ em và đảm bảo quyền dân sự của trẻ em về tài sản, theo đó:

– Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em; đại diện cho trẻ em trong các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật.

– Cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.

– Trường hợp trẻ em gây ra thiệt hại cho người khác thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường thiệt hại do hành vi của trẻ em đó gây ra theo quy định.(1)

Nguồn: moj.gov.vn

Trả lời